– So sánh và sắp thứ tự các phân số sau từng lần tung.
– So sánh và sắp thứ tự các phân số cả nhóm đã viết được.
– GV cùng cả lớp sẽ làm trọng tài kiểm tra 4 nhóm.
Viết đầy đủ các phân số trong các lần tung: 10 điểm.
So sánh và sắp thứ tự từng cặp đúng: 10 điểm.
So sánh sắp thứ tự tất cả các phân số đã viết trong nhóm thì cộng: 20 điểm (có 1 phần sai hoặc thiếu sẽ không được tính điểm).
Nhóm nào xong trước và đúng thì được cộng thêm 1 điểm.
Nhóm thắng cuộc là nhóm đạt nhiều điểm hơn.
TRÒ CHƠI: BINGO
Mục đích: Củng cố, khắc sâu kiến thức, thu hút học sinh say mê học tập.
Chuẩn bị: Không cần chuẩn bị đồ dùng.
Cách chơi: Chơi tựa như kiểu cờ ca rô.
Giáo viên sẽ kẻ trên bảng 16 hay 20 ô vuông, gồm 4 ô hàng dọc, 5 ô hàng ngang và giáo viên điền vào đó 20 số bất kỳ, trong 20 số đó sẽ có 20 câu hỏi tương ứng được định sẵn theo nội dung của bài học.
Giáo viên chia lớp thành 2 đội và quy định đội A đánh dấu X còn đội B đánh dấu O.
Đầu tiên mỗi đội sẽ cử 1 bạn làm nhóm trưởng đại diện chọn ô số, giáo viên sẽ đánh dấu bằng ký hiệu của đội đó vào ô đấy, đồng thời đọc câu hỏi được định sẵn trong mỗi ô cho đội kia trả lời.
Cuối cùng, đội nào chọn ô mà xếp được 3 ký hiệu của đội mình thẳng hàng thì hô thật to là Bingo.
Kết thúc trò chơi: Tặng một tràng pháo tay thật to chúc mừng đội thắng cuộc.
TRÒ CHƠI: SLAP BLACKBOARD (ĐẬP VÀO BẢNG)
Mục đích:
Giúp học sinh luyện đọc và củng cố kỹ năng nghe lại từ đã học, cũng như có thể nhận diện mặt chữ.
Luyện phản xạ nhanh cho các em.
Chuẩn bị: Không cần chuẩn bị bất cứ đồ dùng nào.
Cách chơi:
Giáo viên cho cả lớp ngồi trật tự tại chỗ, sau đó giới thiệu tên trò chơi và vẽ một số hình khác nhau lên bảng chẳng hạn như: hình tròn, hình vuông, hình tam giác, hình chữ nhật, hình thoi, hình ê líp,…
Tiếp theo, giáo viên ghi lại một số từ mới vừa học vào các hình trên.
Sau đó, giáo viên cho học sinh đứng trên bảng trong tư thế chuẩn bị.
Giáo viên sẽ đọc lần lượt các từ mới.
Học sinh đứng trước bảng, nghe giáo viên đọc và đập nhanh vào chữ đó.
Luật chơi:
Chơi theo cặp, giáo viên chia lớp làm hai đội và đặt tên cho mỗi đội, lần lượt mỗi đội cử ra từng bạn nên thi đấu với bạn của đội kia.
Hai bạn đứng trước bảng ở một khoảng cách nhất định và nghe giáo viên đọc rồi nhanh chóng đập tay vào chữ giáo viên vừa đọc được ghi trên bảng, ai đập nhanh và đúng sẽ mang về cho đội mình 1 điểm.
Tiếp tục với cặp thi đấu khác, kết thúc là đủ số từ mà giáo viên đã nêu ra trước khi đọc.
Kết thúc trò chơi: Cộng điểm đội nào nhiều điểm thì đội đó thắng, đội nào thắng sẽ được tặng một tràng vỗ tay.
Lưu ý: Trò chơi này cũng có thể được thực hiện như sau: cử ra một bạn giỏi lên để đọc những từ bất kỳ vừa ghi trên bảng và giáo viên sẽ cho hai bạn nghe nhận diện và đập tay vào hình có từ vừa đọc.
TRÒ CHƠI: LUCKY NUMBER (CON SỐ MAY MẮN)
Mục đích: Tạo không khí hào hứng sôi nổi, cũng như luyện khả năng tập trung cao độ trong giờ học.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị sẵn một số câu hỏi, câu trả lời sao cho bám sát nội dung bài học và không cần phải chuẩn bị bất cứ đồ dùng nào.
Cách chơi:
Giáo viên sẽ kẻ một bảng gồm 15 ô vuông và ghi vào đó 15 số tự nhiên bất kỳ, trong đó sẽ có 12 ô chứa câu hỏi để học sinh trả lời còn 3 câu là 3 con số may mắn gọi là Lucky number.
Mỗi con số may mắn là một điểm 10 và không có câu hỏi.
Luật chơi:
Giáo viên sẽ chia lớp thành 2 đội và đặt tên cho các đội, mỗi đội cử ra một bạn nhóm trưởng để vằn tù tì xem đội nào được quyền chọn trước.
Trong đội sẽ thảo luận xem quyết định chọn con số nào, nếu chọn trúng câu có câu hỏi thì giáo viên đọc câu hỏi và cả đội phải thảo luận tìm ra câu trả lời và bạn cho nhóm trưởng đọc, trả lời đúng thì đội sẽ đạt 10 điểm, nếu sai thì đội kia được quyền trả lời.
Lượt 2 đến đội kia chọn ô, nếu chọn vào ô may mắn thì sẽ không phải trả lời câu hỏi và sẽ được vỗ tay chúc mừng, đồng nghĩa với việc nhận được số điểm may mắn là 10 điểm.
Kết thúc trò chơi: Cộng điểm đội nào nhiều điểm thì đội đó thắng, khi đội nào chọn vào ô Lucky number sẽ được tặng một tràng vỗ tay.
Lưu ý: Giáo viên có thể thay đổi trò chơi để tăng tính cạnh tranh, tạo không khí hào hứng sôi nổi bằng cách quy định điểm, trong 15 ô thì sẽ chứa 12 ô có 5 điểm, 2 ô có 10 điểm và một ô đặc biệt được là 20 điểm.
Trong giờ học đạo đức với đặc trưng của môn học người giáo viên có thể tổ chức trò chơi vào bất cứ lúc nào, tuỳ từng nội dung bài học có thể là khởi động, giới thiệu bài, có thể để học sinh tìm hiểu bài, phát hiện nội dung bài học hoặc có thể để củng cố, khắc sâu kiến thức cho học sinh. Ví dụ:
Trong bài “Biết ơn thương binh, liệt sĩ’ môn đạo đức lớp 3, ta có thể tổ chức trò chơi với tên gọi “Ném bóng”.
Luật chơi: Các nhóm đứng thành vòng tròn, bóng được truyền từ người này sang người khác một cách từ từ. Ai nhận được bóng phải hát ,đọc thơ ,kể chuyện về chủ đề thương binh, liệt sĩ cho cả lớp của mình nghe rõ. Cứ như vậy cho đến khi mọi người trong nhóm đều được nhận bóng và hát Ai hát, múa, kể chuyện sai hoặc không hát, múa, kể chuyện được thì sẽ phải nhảy lò cò một vòng.
Giáo viên cử ra nhóm trọng tài gồm ba em.
Tiến hành trò chơi: Giáo viên tổ chức cho một nhóm làm mẫu. Giáo viên rút kinh nghiệm và cho cả lớp tiến hành chơi thật. Giáo viên hô (có dự lệnh – động lệnh) “Trò chơi – Bắt đầu”. Giáo viên cùng trọng tài quan sát và điều chỉnh cho các nhóm hoạt động khẩn trương, đúng luật.
Tổng kết trò chơi: Giáo viên đánh giá chung cả lớp và riêng từng nhóm.
Giáo viên rút ra kết luận: Thương binh, liệt sĩ là những người đã hi sinh xương máu vì Tổ Quốc. Mỗi chúng ta cần ghi nhơ và đền đáp công lao to lớn đó bằng những việc làm thiết thực của mình.
Dân tộc Việt Nam ta có một nền văn hóa, một bề dày lịch sử lâu đời. Đó là những ngày đầu của vua Hùng dựng nước cho đến những năm tháng đấu tranh giữ nước và xây dựng Tổ quốc. Từng chặng đường, từng giai đoạn đã ghi lại những mốc son chói lọi, là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam. Ai đã đi qua những chặng đường ấy luôn cảm thấy yêu quê hương và con người Việt Nam biết chừng nào. Thế hệ trẻ hôm nay sẽ viết tiếp những trang sử vàng cho dân tộc bằng tài năng, trí tuệ và nhiệt huyết của mình. Để làm được điều đó, trước hết các em phải yêu thích lịch sử quê hương, bởi vì “Yêu sử chính là làm cho tâm hồn ta luôn hướng về đất nước”. Ngay từ bậc tiểu học ở lớp 4 các em đã được học lịch sử qua một phân môn rõ rệt mà không lồng ghép chung với bất cứ phân môn nào. Điều này càng cho chúng ta thấy, việc dạy Sử trong nhà trường là điều cần thiết và quan trọng không thể lơ là. Vậy làm thế nào để các em yêu thích môn lịch sử, các em tự tìm đến với lịch sử của dân tộc? Các trò chơi học tập chính là câu trả lời.
TRÒ CHƠI Ô CHỮ KỲ DIỆU
Mục đích:
Dùng để dạy các bài ôn tập, và các hoạt động củng cố cuối bài
Có thể sử dụng trong hoạt động khởi động.
Phát triển óc thông minh, sự nhanh nhẹn, có khả năng phân tích, phán đoán.
Kích thích hứng thú học tập của học sinh.
Chuẩn bị:
Bảng phụ hoặc giấy rôki kẻ sẵn ô chữ đã định.
Nội dung câu hỏi, câu trả lời.
Cách thực hiện:
Sau khi giáo viên tổ chức hoạt động để tìm hiểu nội dung ôn tập, giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi này.
Giáo viên chia lớp thành 2 – 4 đội ( tùy vào số lượng học sinh).
Giáo viên đưa ra ô chữ gồm hàng ngang và hàng dọc. Mỗi ô chữ hàng ngang là nội dung kiến thức đã học kèm theo lời gợi ý.
Mỗi nhóm chơi sau khi nghe lời gợi ý xong suy nghĩ hội ý và phất cờ để giành quyền trả lời. Nhóm nào phất cờ trước, trả lời nhanh, đúng ghi được 10 điểm. Nhóm nào sai nhường quyền trả lời cho nhóm khác. Trong khi các nhóm trả lời giáo viên ghi lại các từ đó lên bảng để học sinh dưới lớp đối chiếu từ đó với ô chữ đã có và kiến thức đã học xem đã đúng chưa, nếu học sinh và giáo viên nhận xét đúng thì giáo viên ghi đáp án đó vào “Ô chữ kỳ diệu” Nhóm thắng cuộc là nhóm ghi được nhiều điểm nhất.
TRÒ CHƠI GHÉP TỪ
Mục đích:
Dùng để dạy các loại bài có các hoạt động minh họa bằng hình hoặc bằng sơ đồ trong sách giáo khoa thuộc môn lịch sử Củng cố kiến thức hiểu biết, sự nhanh nhẹn, thông minh, có kĩ năng tổng hợp thông tin thành chuỗi kiến thức liên hoàn.
Chuẩn bị: Các từ cần ghép thành sơ đồ của hoạt động dạy học (2 bộ từ).
Cách thực hiện trò chơi:
Sau khi cho học sinh làm việc với kênh hình và kênh chữ trong sách giáo khoa, giáo viên có thể chia lớp thành 2 đội
Giáo viên phổ biến luật chơi, quy định thời gian một cách rõ ràng.
Sau khi phổ biến luật chơi, cách chơi, giáo viên yêu cầu các nhóm lên thực hiện (hai đội cùng thực hiện với hai nhóm giấy bìa ).
Học sinh lên thực hiện bằng cách thi tiếp sức, hai đội thi nhau ghép chữ và dùng mũi tên để biểu diễn thành một sơ đồ.
Từng học sinh trong nhóm theo thứ tự lựa chọn từng thông tin trên mảnh giấy bìa để sắp xếp.
Trong quá trình giảng dạy các phân môn thuộc chuyên ngành xã hội, khi nói đến văn thì ngôn ngữ mượt mà, êm dịu, dễ đi vào lòng người, hay có sự lô – gích như sử. Còn nói đến Địa lý thì sao? Theo quan điểm nhìn nhận thực tế của học sinh và của mọi người thì đây là một môn học tuy thuộc lĩnh vực xã hội song lại mang lưỡng tính tự nhiên nhiều hơn. Đa phần có hàm lượng kiến thức khá trừu tượng, khó hiểu. Trông nó có vẻ “khô” quá. Học sinh phần lớn ít có hứng thú học môn này hơn so với văn, sử. Nhằm tạo hứng khởi cho học sinh đối với môn học này, các trò chơi cũng được các thầy cô áp dụng.
Với môn địa lý, các trò chơi ô chữ sẽ được áp dụng nhiều. Tùy vào từng chủ đề của mỗi bài học mà thầy cô sẽ thiết kế nên các trò chơi ô chữ với nội dung khác nhau.
Chẳng hạn Ô chữ có 9 hàng ngang và 1 ô hàng dọc. Chia lớp làm 2 đội A-B, mỗi đội lần lượt chọn ô chữ hàng ngang. Trong vòng 10 giây nếu trả lời đúng ghi được 10 điểm, nếu trả lời sai đội còn lại giành quyền trả lời. Đội nào đoán được ô chữ hàng dọc ghi được 30 điểm, nếu sai trò chơi sẽ tiếp tục cho đến khi tìm ra hết các từ hàng ngang. Đội nào ghi được nhiều điểm hơn sẽ giành chiến thắng.
TRÒ CHƠI: ĐỐ BẠN CON GÌ? (CÁC BÀI SINH SẢN VÀ NUÔI CON CỦA ĐỘNG VẬT)
Mục tiêu: Giúp học sinh nắm lại đặc điểm chính về sự sinh sản và nuôi con của động vật.
Tiến hành:
Một học sinh được đeo hình vẽ của con vật ở sau lưng, em đó không biết đó là con gì nhưng cả lớp thì biết rõ. Học sinh đeo hình vẽ được đặt câu hỏi Đúng/Sai để đoán xem đó là con gì,cả lớp trả lời.
Ví dụ: Con này có bốn chân đúng hay sai? Con vật này ăn cỏ đúng hay sai? Nó sống thành bầy đúng hay sai? Con vật này đẻ trứng đúng hay sai? …Nếu học sinh đoán đúng con vật thì được khen, nếu sai sẽ bị phạt.
TRÒ CHƠI: ĐỐ BẠN HOA GÌ? (CÁC BÀI SỰ SINH SẢN Ở THỰC VẬT CÓ HOA)
Mục tiêu: Giúp học sinh phân biệt được hoa đơn tính và hoa lưỡng tính.
Chuẩn bị: Học sinh chuẩn bị nhiều loại hoa đem đến lớp.
Tiến hành: Giáo viên chia lớp thành hai nhóm, các loại hoa học sinh sưu tầm được cắm vào hai lọ nhỏ, giáo viên hô “chuẩn bị” thì mỗi bạn cử ra hai bạn nhanh tay lên chọn hoa và xếp chúng thành hai loại hoa đơn tính và hoa lưỡng tính. Trò chơi diễn ra trong thời gian hai phút, nếu nhóm nào chọn được nhiều hoa và đúng thì nhóm đó thắng.
TRÒ CHƠI NÊN HAY KHÔNG NÊN (CÁC BÀI VỀ CON NGƯỜI VÀ MÔI TRƯỜNG)
Mục tiêu: Giúp học sinh rèn luyện những kĩ năng phân biệt những việc không nên làm và nên làm của con người đối với môi trường.
Chuẩn bị: Sưu tầm một số tranh ảnh liên quan đến bài học.
Tiến hành:
Chia lớp thành các nhóm bốn đến sáu em, phát cho mỗi nhóm bốn đến năm tranh giấy to và hồ dán. Các nhóm thảo luận và dán các tranh theo hai cột: Nên; Không nên. Nhóm nào dán nhanh, dán đúng, dán đẹp nhóm đó thắng. Những trò chơi trên đây giáo viên có thể thay đổi cho phù hợp với từng kiểu bài, từng chương hoặc có thể thay đổi tên trò chơi để gây sự mới lạ cho học sinh.
TRÒ CHƠI TẬP TẦM VÔNG
Tác dụng:
Rèn luyện, nhanh tay, tinh mắt.
Vui chơi, giải trí.
Chuẩn bị:
Cho học sinh ngồi hoặc đứng vào nhau thành từng đôi một, 1 trong 2 em cầm một viên sỏi nhỏ hoặc viên bi hay mẫu tẩy, mẫu giấy co tròn.
Nếu cả lớp thì để học sinh ngồi nguyên vị trí cũ, còn cô thay viên sỏi bằng cái kẹo hay quả mận.
Cách chơi:
Cách 1: Gíao viên hô: “Chuẩn bị… bắt đầu” sau lệnh đó, học sinh cầm sỏi trong tay đưa ra sau lưng khéo léo nắm viên sỏi vào một trong hai tay rồi đưa hai tay về phía trước giả vờ như chuyển viên sỏi từ tay nọ sang tay kia đồng thời cả lớp hát bài Tập tầm vông.
Cách 2: Giáo viên cầm một cái kẹo giơ cao lên cho học sinh cả lớp nhìn thấy, sau đó giáo viên đưa sau lưng nắm vào một trong hai bàn tay rồi chuyển về phía trước cho học sinh hát bài Tập tầm vông. Giáo viên cho các em xung phong đoán.
Sau mỗi trò chơi giáo viên cần nhận xét và tuyên dương những bạn chơi tốt.
TRÒ CHƠI: HÁT NHANH HÁT CHẬM
Tác dụng: Qua kí hiệu tay của giáo viên, học sinh biết hát nhanh, hát chậm theo đúng hiệu lệnh.
Chuẩn bị:
Một số bài hát đã học.
Giáo viên chuẩn bị động tác tay chuẩn.
Cách chơi: Giáo viên quy ước kí hiệu tay:
Khi giáo viên guồng hai tay nhanh thì học sinh hát nhanh, guồng hai tay chậm thì học sinh hát chậm.
Giáo viên bắt nhịp các bài hát đã học và hát theo kí hiệu tay của giáo viên.
Lưu ý: Học sinh không hát quá nhanh, không hát dồn nhịp mà cần tập trung theo đúng hiệu lệnh.
TRÒ CHƠI CHẠY TIẾP SỨC
Chuẩn bị: Kẻ vạch xuất phát và vạch đích cách nhau 6 – 8m. Có thể thay vạch đích bằng 2 – 4 lá cờ nhỏ (tương đương với số tổ HS trong lớp), cờ nọ cách cờ kia 1 – 2m. Tập hợp học sinh trong lớp thành 2 – 4 hàng dọc sau vạch xuất phát, các tổ có số người bằng nhau.
Cách chơi: Khi có hiệu lệnh, các em số 1 của mỗi hàng chạy nhanh, vòng qua cờ rồi chạy về vạch xuất phát chạm tay ( hoặc trao cho bạn một chiếc khăn hay quả bóng) bạn số 2, số 2 lại chạy như số 1 và cứ lần lượt như vậy cho đến khi hàng nào xong trước, ít phạm quy là thắng cuộc.
TRÒ CHƠI NHẢY Ô TIẾP SỨC
Chuẩn bị: Kẻ một vạch chuẩn bị dài 4m, sau đó kẻ vạch xuất phát dài 4m, cách vạch chuẩn bị 1m. Từ vạch xuất phát về trước 0,6 – 0,8m kẻ hai dãy ô vuông, mỗi dãy 10 ô, mỗi ô có cạnh 0,4 – 0,6m. Cách ô số 10: 0,6m kẻ vạch đích dài 4m.
Cách chơi: Tập hợp lớp thành 2 hàng dọc. Khi có lệnh, các em số 1 bật nhảy bằng hai chân vào ô số 1, sau đó bật nhảy hai chân vào ô số 2 và 3, nhảy chụm chân vào ô số 4 và cứ lần lượt nhảy như vậy cho đến đích, thì quay lại, chạy về vạch xuất phát đưa tay, chạm tay bạn số 2. Bạn số 2 bật nhảy như bạn số 1 và cứ lần lượt (lượt đi bật nhảy, lượt về thì chạy) như vậy cho đến hết, hàng nào xong trước, ít phạm quy là thắng cuộc.
TRÒ CHƠI NHẢY ĐÚNG NHẢY NHANH
Chuẩn bị: Kẻ 2 ô vuông lớn, mỗi ô có cạnh 1m, rồi chia thành 4 ô nhỏ mỗi ô có cạnh 0,5m và đánh số như hình vẽ. Kẻ 2 vạch chuẩn bị và xuất phát cách nhau 1m. Cách vạch xuất phát 0,5m , kẻ ô số 1. Tập hợp học sinh thành 2 hàng dọc sau vạch chuẩn bị.
Cách chơi: Lần lượt từng em, bật nhảy bằng hai chân vào ô số 1, sau đó bật nhảy chân trái vào ô số 2, rồi bật nhảy chân phải vào ô số 3, nhảy chụm chân vào ô số 4, tiếp theo bật nhảy bằng hai chân ra ngoài. Em số 1 nhảy xong đến số 2 và cứ lần lượt như vậy cho đến hết.
(Tổng hợp) Sưu tầm: vinskills.vn